Chúa Còn Làm Phép Lạ – Chương 12.6

Chương 12.6: Phép Lạ Thực Sự Đã Xảy Ra

Hinh-Nen-Hoa-Tulip-Dep-14

Tháng sáu năm 1953, có một sự thay đổi lớn trong chính sách của Đảng Cộng sản. Stalin qua đời đã được ba tháng và tình trạng “tan chảy” lan tràn đến Hung-Gia-Lợi dường như được tự do với một tân thủ tướng. Tôi được gọi về bộ quốc phòng và người ta gần như xin lỗi tôi về các cánh đã đối xử với tôi trước đây. Tôi được truy lãnh tất cả lương bổng.

Trong tuần lễ này tôi nhận được quyết định giải ngũ. Hồ sơ tôi trong sạch và tôi được giải ngũ xếp vào loại “không có vết tích nào về nghề nghiệp và chính trị”. Tôi được tự do.

Ít ra tôi cũng tưởng là mình được tự do mãi cho đến ngày tôi trở về Budapest và khám phá ra rằng không một bác sĩ quân y giải ngũ nào được hành nghề y khoa tại thủ đô. Người ấy được kể như một thành phần chính trị nguy hiểm. Tôi thoát được xiềng xích này thì mắc vào xiềng xích kia. Do đó tôi quyết định phải vượt biên giới càng sớm càng tốt.

Julia và tôi tiếp tục gặp nhau, trong khi đó tôi dành nhiều thì giờ học Anh ngữ. Mặc dù tôi bị kể là một thành phần chính trị nguy hiểm. Chúa lại can thiệp và tôi lại được chấp thuận cho học thêm về nội khoa và sau đó về bệnh tim tại các bệnh viện có tiếng nhất trong thành phố. Tối lại tôi dành thì giờ để dịch Anh ngữ sang tiếng Hung-Gia-lợi, không những các bài giảng của tấn sĩ McCartney, nhưng toàn thể văn bản quyển “Phục hòa cùng Thượng Đế” của Billy Graham và quyển “Cầu Nguyện Như Thế Nào” của tấn sĩ Torrey. Các bản dịch chỉ được chép tay bí mật trong vòng các tín hữu Cơ đốc.

Đến 23-10-1956, người đàn bà giúp việc chạy xông vào phòng tôi và gào lớn, bảo tôi hãy nhìn ra cửa sổ. Bên dưới, hàng ngàn người Hung-Gia-Lợi và thanh niên kéo nhau đi trên đường phố, giăng biểu ngữ, hô to các khẩu hiệu: “Quân Nga hãy cút đi!” Một cuộc cách mạng xảy ra.

Tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên. Từ lâu nay trong quần chúng Hung-Gia-lợi đã có một sự bất ổn lớn lao, nhưng chúng tôi không ngờ là có đến hàng ngàn thanh niên bằng lòng hy sinh tán thành cho tự do. Một trong các bạn hữu của tôi từng hoạt động chính trị ký thác tâm sự với tôi là toàn thể cuộc cách mạng đã bị người Nga xúi giục để cho người Hung-Gia-Lợi xuất đầu lộ diện hầu có thể thanh toán tất cả các phần tử phiến loạn. Lời nói đúng với sự việc đã xảy ra.

canh-dong-hoa-tulip-12

Cuộc chiến kéo dài ba ngày, sau đó quân Nga rút ra ngoại ô của thành phố. Là một cựu sĩ quan, tôi biết việc gì sẽ xảy ra. Tôi biết họ sắp sử dụng chiến xa. Bên trong thành phố Budapest, tự do ngự trị, nhưng đó chỉ là cái rún của cơn bão. Sáng ngày 4 tháng 2 tiếng xe tăng rầm rầm chạy trên các đường phố. Quân đội Hung-Gia-Lợi và các chiến sĩ tự do cố gắng làm một việc bất năng: dùng súng và lựu đạn chống lại chiến xa. Nhưng vô vọng, chiến xa hạ xát hàng ngàn người. Đường phố la liệt tử thi và những kẻ hấp hối. Các chiến xa hủy diệt mọi sự chống đối nhỏ nhặt một cách tàn nhẫn, phá sập tất cả các chung cư chỉ vì một phát súng nổ. Sự tàn sát của quân Quốc xã so với quân Nga còn nhân đạo. Tiếp tục chờ đợi sự viện trợ của các quốc gia tự do nhưng không thấy, hàng chục ngàn người bị chết và đường phố nhuộm đỏ những máu. Ban đêm quân xa tuần tiễu trên các đường phố, nhặt tử thi đem chôn trong các ngôi mộ tập thể tại nghĩa địa. Các nhân viên bệnh viện làm việc ngày đêm, tìm cách cứu sống hàng ngàn người bị thương, bị băm vắm đã lê lết vào đây. Mọi ý tưởng dè dặt của tôi với việc vượt tuyến sang thế giới tự do đã bị đánh tan trong những ngày sống trong hỏa ngục nói trên. Ngay cả Julia, người đã từng chống đối việc tôi từ bỏ Hung-gia-lợi bây giờ cũng khuyến khích tôi. Nàng hứa sẽ theo tôi cành sớm càng tốt. Vấn đề của tôi bay giờ là làm thế nào để tôi vượt tuyến.

Biên giới phía tây được canh phòng cẩn mật. Cách biên giới một trăm cây số tất cả các giấy tờ đều bị khám xét và không ai được phép xâm nhập vùng này trừ ra những người dân đang cư ngụ tại đây. Từ biên giới Áo Quốc trở đi các tháp canh mọc dài hết cây số này đến cây số khác. Tất cả đều được trang bị đèn pha thật sáng, máy điện thoại và súng liên thanh. Tất cả lính gác đều mang tiểu liên, dùng chó săn đã được huấn luyện đặc biệt để tuần tiễu các khu vực giữa các tháp canh, tìm bắt những ai mạo hiểm xâm nhập cấm khu. Những sợi dây báo hiệu ngụy trang thành những vòi dây leo mỗi khi bị chạm đến sẽ rung chuyển báo động tại tháp canh và những dây mìn được chôn dấu dưới đất dọc theo biên giới. Tất cả hệ thống báo động trên được rào lại bằng ba dãy hệ thống kẽm gai. Tất nhiên những chướng ngại trên đã làm nản chí tôi rất nhiều trong việc vượt biên giới.

Mãi đến năm 1958, tôi nộp đơn xin phép tham dự đại hội thế giới về bệnh tim họp tại Brussels. Tôi ngại sẽ không được chấp thuận vì hồ sơ lí lịch cũ của tôi. Tuy nhiên, Chúa đã làm việc, cửa mở ra và tôi được cấp giấy chiếu thông hành để tham dự. Đã đến lúc tôi phải rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của tôi.

Mặc dù chúng tôi không thể công khai loan báo, Julia và tôi đã hứa nguyện yêu nhau. Một tuần lễ sau, ngày 12-9-1958, tôi rời Hung-Gia-Lợi, và khi đến Brussels, tôi trình diện tại một trạm cảnh sát xin được tị nạn chính trị. Phải mất năm năm trời tôi mới gặp lại Julia. Tôi ở tại Brussels hết ngày này qua ngày khác rồi hết tháng này qua tháng khác, cuối cùng tôi được phép di trú sang Gia-Nã-Đại. Tôi làm việc nội trú tại tổng Y Viện Hamilton chuyên về bệnh tim và sau đó đã được y sĩ đoàn chấp thuận cho thực tập về bệnh tim tại bệnh viện nhi đồng ở Toronto.

55eb070b15b6e14

Cơ quan cảnh sát chính trị tại Hung-gia-lợi liên tiếp bác đơn xin xuất ngoại của Julia cho đến chừng nàng hợp tác với các bạn cầu nguyện. Một chuỗi các biến cố lạ kỳ đã xảy ra, vì bỗng nhiên một chính trị gia có tai mắt đã xin được phép cho nàng đi trú sang Bỉ. Tuy nhiên, người Bỉ từ chối cấp chiếu khán di trú cho nàng vì cớ tôi không thể bảo đảm là sau đó  nàng sẽ được phép nhập cảnh Gia-Nã-Đại. Mãi đến khi một bạn thân của vị tùy viên xin chiếu khán, thái độ cứng rắn của bộ Tư Pháp Bỉ mới thay đổi. Cuối cùng, khi tôi ở tại Gia-Nã-Đại vận động để đưa Julia sang Toronto, vị tân Bộ Trưởng bộ Di Trú và cuộc tổng tuyển cử sắp xảy ra đã đánh đổ được sự chống đối của chính quyền Gia-Nã-Đại. Ngày 12-7-1963, tôi gặp Julia trên tàu ở Montreal và chúng tôi làm lễ thành hôn.

Julia và tôi hoàn toàn hạnh phúc được trùng phùng. Chúng tôi đã tìm được tự do mà lòng chúng tôi bấy lâu khao khát trên chế độ cộng sản, Tuy nhiên, sức khỏe của Julia rất kém. Tôi càng ngày càng lo ngại cho nàng. Nàng bị sưng túi mật và rất có thể bị sạn. Thận của nàng bị nhiễm độc, và tôi biết bệnh ruột dư của nàng cũng đã trầm trọng, đã sưng lớn và dính chặt với các mô xung quanh. Nàng bị loét đại tràng, ra máu rất nhiều. Tôi lo ngại vì nàng không uống được thuốc, dù chỉ uống bằng phân lượng của trẻ em, nàng cũng bị phản ứng. Dường như tôi có thể chữa bệnh cho tất cả mọi người, nhưng không chữa được cho vợ mình.