Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ – Chương 2.3
Chương 2.3: Phép Lạ Thực Sự Đã Xảy Ra
Sau đó vào tháng Chạp năm 1966, Fran phải trải qua một cuộc giải phẩu. Cho đến khi nàng rời nhà thương về nhà thì thể xác và tình cảm của tôi hoàn toàn gẫy đổ.
Đêm đầu tiên, mặt dù sức còn yếu vợ tôi vẫn còn lo nấu cơm tối và bằng lòng dọn dẹp nhà bếp. Chưa bao giờ tôi tìm cách rời phòng ăn ra phòng khách một mình vì cớ hai bấc thềm, nhưng đêm đó tôi lần mò rời nhà bếp để đi xem vô tuyến truyền hình. Tuy nhiên tôi đã không thành công.
Khi tôi bắt đầu đặt chân xuống bậc thềm, chân tôi sụm xuống. Nó sụm xuống một cách thình lình không ngờ được và tôi chúi mũi xuống nền phòng khách, lăn lộn đau đớn vô cùng.
Maria kêu cứu mẹ ầm ỉ. Fran đứng trên bực thềm cao, một tay bụm lấy miệng để ngăn tiếng thét. Nàng chạy đến cạnh tôi nhưng không đủ sức nâng tôi dậy. Chưa bao giờ tôi bị đau đớn như thế.
Tôi nghe tiếng nàng lay hoay với máy điện thoại tìm cách gọi người hàng xóm, nhưng trong cơn hoảng hốt, đâu óc trống rỗng nàng không nhớ được con số. Nàng vụt chạy ra đường, đóng cửa đánh rầm kêu cứu người hàng xóm.
Người láng giềng cùng với ba con ông chạy đến nâng tôi đặt nằm trên trường kỉ. Tôi toát mồ hôi, lạnh cả người và mỗi khi cữ động tôi run rẫy và gào thét lên đau đớn.
Fran gọi điện cho bác sĩ. Ông ta nhận ra ngay tiếng vợ tôi vì trước đây nàng đã gọi ông ta nhiều lần. Ông bảo: “ bà nên đưa ông đến nhà thương ngay”.
Lần này tôi phải nằm nhà thương mất bảy tuần lễ.
Đêm giáng sinh, bác sĩ cho phép tôi về nhà 24 tiếng đồng hồ và bảo: “ Anh nhớ bước chậm rãi và đừng leo lên bực thềm nào cả, kẻo lần này là lần chót”.
Chúng tôi tổ chức lễ giáng sinh tại nhà mẹ tôi, trong gian để xe hơi, để tôi khỏi phải leo thềm vào nhà.
Ngày hôm sau là chính lễ, Fran phải bỏ bữa tiệc của nàng để đưa tôi vào nhà thương, vì khi ngồi lại bàn tiệc tôi đã bị ngã và không đứng dậy được. Về sau Fran kể lại cho tôi biết là các con tôi đã khóc suốt ngày hết nước mắt.
Cho đến cuối tháng hai khi tôi thực sự ra khỏi bệnh viện. Bác sĩ bắt tôi đeo một sợi dây treo quàng ngang vai buột chặc quanh hông và lưng.
Nhưng xương sống của tôi lại mọc thêm những cục do chất Calcium kết tụ lại khá lớn nên tôi hầu như không thể mang nịt được. Bác sĩ bảo là chỉ có cách mổ mới loại bỏ được chất vôi này mà thôi.
Khi tôi còn ở nhà thương, cứ bốn giờ tôi được chích một muỗi Demerol. Bây giờ trở về nhà, dùng thuốc trấn thống, tôi thấy không đủ, tôi đã bị ghiền nặng rồi. Nhưng sự đau đớn quá trầm trọng nên tôi không cần để ý tới điều đó. Đối với tôi thế giới này sắp tận chung đến nơi rồi.
Trong khi tôi còn ở bệnh viện thì ở nhà có một việc khác xảy ra. Vợ tôi và vợ người hàng xóm đã nghe chương trình phát thanh của cô Kathryn Kuhlman trên đài phát thanh Cựu Kim Sơn. Người láng giềng của tôi tặng cho vợ tôi cuốn “Tôi tin tưởng vào phép lạ” và yêu cầu vị mục sư của họ đến thăm viếng tôi tại bệnh viện.
Nếp sống của Fran đã thay đổi, trước kia nàng từng được trưởng dưỡng để trở thành một tín hữu công giáo, nhưng không sùng đạo lắm. Nhưng bây giờ đức tin của nàng đã mạnh lên như một ngọn cỏ bất thình lình tìm được một khe nứt dưới một tảng đá, vươn mình lên để hưởng ánh sáng mặt trời.
Khi tôi về nhà, Fran cho rằng chúng tôi phải đáp lễ vị mục sư và dự một buổi lễ của ông giảng. Chúng tôi rất cảm động về tình thân hữu của các tín đồ và sau đó nhiều tuần lễ, chúng tôi gia nhập hội thánh này.
Sự việc bắt đầu xảy ra, Fran càng ngày càng lưu tâm đến cô Kathryn Kuhlman và biết rằng cô sẽ đến giảng tại một bữa ăn trưa ở Cựu Kim Sơn. Tất cả vé đã bán hết nhưng một ngày trước bữa tiệc, người láng giềng của tôi bị đau nên đã trao vé của bà ấy cho vợ tôi.
Chiều hôm sau vợ tôi về nhà náo nức vô cùng. Nàng reo lên: “chính mắt em đã thấy bao nhiêu người lành bệnh. Em đã trò chuyện với một bà bị thương ở lưng nhưng đã được chữa lành. Anh Fred à, em biết chắc là anh cũng sẽ được chữa lành. Sáu tuần lễ nữa cô Kuhlman sẽ trở lại Cựu Kim Sơn và giảng ở đền thờ Kỷ niệm (Memorial Temple) tại Nob Hill. Hôm ấy anh sẽ được chữa lành”.
Tôi nói: “ hoặc là em điên hoặc là em quá chén rồi” đúng nàng đã say, nhưng lúc ấy tôi chưa hiểu gì về “rượu mới” cả.
Sau đó mọi người bắt đầu cầu nguyện khẩn thiết cho tôi. Các tín đồ trong Hội thánh thăm viếng tôi và bảo rằng họ đang cầu nguyện cho tôi. Tôi tỏ ra lịch sự, nhưng bên trong cười thầm cho sự ngu ngốc của họ. Về sau tôi biết rằng một số tín đồ đã kiêng ăn, thức suốt đêm cầu nguyện cho tôi.
Fran trách tôi: “Anh phải biết hổ thẹn chứ. Những người này đã sưng đầu gối vì cầu nguyện mà anh thì chỉ chế nhạo và cười cợt”.
Nhưng tôi vẫn chịu sống đau đớn. Luật sư của tôi bảo rằng chúng tôi phải tiếp tục kiện hãng bồi thường vì bệnh của tôi ngày càng trầm trọng.
Ông ta bảo tôi: “trường hợp của chúng ta vững lắm. Tôi tưởng mình nên kiện đòi bồi thường một số tiền lớn và sẽ thắng”. Tôi đồng ý.
Fran lại có ý định khác. Nàng tin chắc chắn thế nào tôi cũng được chữa lành tại một buổi giảng của cô Kathryn Kuhlman.
Tôi bảo rằng: “em phí thì giờ vô ích”. Nhưng nàng vẫn tiếp tục. Nàng tìm cách đọc cho tôi nghe sách của cô Kuhlman. Trước khi đọc, nàng bảo: “Để em đọc anh nghe”. Rồi sau khi nàng đọc hết phép lạ này đến phép lạ khác, nước mắt tuôn rơi lã chã. Nàng nói: “Kỳ diệu quá phải không anh?”.
Tôi đùa cợt: “anh cảm động vì cớ em khóc nhiều hơn là những chuyện thần tiên kỳ cục đó”.
Nàng bảo tôi: “Ừ, thì anh cứ tiếp tục nghi ngờ đi. Dù thế nào đi nữa, nhất định Chúa sẽ chữa lành cho anh”.
Fran nói với Maria và Lisa rằng Chúa sẽ chữa lành cho tôi, nên chúng bắt đầu cầu nguyện cho tôi mỗi tối.