Chức Vụ Chữa Lành- Các Quỷ Trong Nước Và Ngoài Nước; Sẵn Sàng; Doris Nắm Quyền Kiểm Soát

CÁC QUỶ TRONG NƯỚC VÀ NGOÀI NƯỚC

cac-quy-trong-nuoc-va-ngoai-nuoc

Tôi biết rõ những nguy cơ bao hàm trong việc gộp một chương nói về ma quỷ vào trong cuốn sách này. Trước đây, tôi không viết nhiều về đề tài này, và một đôi lần khi thử làm điều đó, tôi đã bị đẩy vào một trong những sự phiền nhiễu rắc rối lớn nhất mà tôi có thể nhớ được với một số trong các đồng nghiệp quanh Chủng Viện Fuller.

Họ dán các bài viết của tôi lên Bảng Thông Báo trong Trường, tại đó, chúng trở thành vấn đề trọng tâm cho cuộc bàn cãi căng thẳng. Vị chủ tịch chủng viện mời tôi cùng với trưởng khoa của tôi đến văn phòng của ông ta để giải thích quan điểm của tôi. Thành thật mà nói, cho đến thời điểm đó tôi vẫn hoàn toàn ngây thơ về việc một số những vị lãnh đạo Cơ Đốc bực bội như thế nào về vấn đề này. Ngày nay, tôi đã được thông tin đầy đủ hơn.

Nhưng có một nguy cơ thậm chí có tiềm năng cao hơn nữa đó là việc trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ. Khi tôi viết điều này, những người cầu thay cho tôi đang ở trong một nhiệm vụ đặc biệt, tăng cường chức vụ cầu thay bình thường của họ cho tôi. Những người khác đã cảnh cáo chúng tôi về những nguy hiểm. Francis MacNutt, chẳng hạn, đề cập rằng ông đã xem xét việc bỏ đi một chương nói về sự giải cứu bởi vì nó gây tranh cãi quá sức.1 Michael Green nói quyển sách của ông I Believe in Satan’s Downfall (Tôi Tin Sự Sụp Đổ của Satan ) không phải là “một quyển sách dễ dàng hoặc vui thích để viết.”2

Khi tôi viết điều này , những người cầu thay cho tôi đang ở trong một nhiệm vụ đặc biệt , tăng cường chức vụ cầu nguyện bình thường của họ cho tôi

Ông cũng có nhắc đến việc C. S. Lewis được cho biết là đã cảm thấy rất giống như vậy khi viết cuốn sách kinh điển của ông là Screwtape Letters. Nếu họ mà còn bị như vậy thì huống chi là tôi.

SẴN SÀNG

Bất cứ ai muốn bắt đầu chức vụ chữa lành đều phải nhận thức rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ có thể phải bị đối đầu với ma quỷ. Vì một lý do, bốn lãnh vực chính trong việc chữa lành nói chung bao gồm việc chữa lành tâm linh, việc chữa lành thuộc thể, việc chữa lành cảm xúc, và tất nhiên, tình trạng bị quỷ ám. Lý do còn lại là, mặc dù khi ai đó không trực tiếp xử lý với những người bị quỷ ám, nhưng làm những công việc khác của Cha mình, thì sự đối nghịch của Satan thường bị khuấy động.

Vì vậy mặc dầu đưa một chương nói về ma quỷ vào là một sự liều lĩnh, tôi cảm thấy đây thậm chí là một sự liều lĩnh lớn hơn nữa nếu để người ta đọc một quyển sách nói về làn sóng thứ ba, cầu nguyện cho người đau, mà vẫn không hề hay biết gì về những cuộc tấn công khả thi từ nơi kẻ thù là kẻ “đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được” (IPhi 1Pr 5:8). Phierơ nói rằng để tránh nguy hiểm, chúng ta phải “tiết độ, và tỉnh thức” (câu 8). Và phương cách được tiến cử để xử lý với kẻ thù là phải “chống cự hắn” (câu 9). Kinh Thánh không bao giờ nói rằng cách tốt nhất để xử lý ma quỷ là làm ngơ đối với hắn.

Tôi không có ý định bàn luận đến chủ đề ma quỷ và chiến trận thuộc linh thật thấu đáo. Điều đó đòi hỏi cả một quyển sách, chứ không phải chỉ một chương. Ngoài ra có một số sách rất tốt nói về đề tài này mà hiện nay đã có như là cuốn I Believe in Satan’s Downfall của Michael Green, cuốn The Adversary and Overcoming the Adversary của Mark Bubeck; Spiritual Warfare của Michael Harper, cuốn Demon Possession and the Christian của C. Fred Dickason và các tác phẩm khác. Tôi khuyên bạn hãy đọc nghiêm túc lãnh vực này, và tôi cũng khuyên bạn hãy tìm kiếm những người có chức vụ giải cứu và hãy học tập họ.

Mặc dầu tốt nhất là những người có kinh nghiệm phải được kêu gọi để xử lý với các vấn đề về ma quỷ, nhưng cũng tốt cho tất cả chúng ta để sẵn sàng mọi lúc, bởi vì nhiều nhân sự Cơ Đốc thình lình thấy mình ở trong một tình huống phải đối đầu với các quỷ một đối một, dầu họ có muốn hay không. Tôi nhớ lại đã nghe Paul Pierson, vị trưởng khoa Truyền Giáo Thế Giới ở tại Trường Fuller thuật lại kinh nghiệm của ông với tư cách một nhà truyền giáo Trưởng Lão trong các khu rừng rậm ở tại miền Tây Brazil khi ông bị đối mặt với một cô gái bị quỷ ám trong một nơi hoang vắng. Ông đã làm gì? Mặc dầu không có kinh nghiệm, ông thấy mình biết truyền lệnh cho ma quỷ phải lìa bỏ cô bé trong danh của Chúa Giê-xu và nó đã ra đi. Ông ta đã sẵn sàng. Tôi thật vui mừng bởi vì vợ tôi, Doris, đã sẵn sàng khi điều đó xảy ra vào một buổi chiều ở tại văn phòng hội thảo của tôi. Một phụ nữ có buổi hẹn cầu nguyện theo lệ thường, bởi vì bà ta bị đau nghiêm trọng nơi mắt cá. Cũng như thường lệ, song không phải là luôn luôn, tôi xin phép xức dầu cho bà. Vừa khi dầu chạm vào trán bà ta, ma quỷ đã thể hiện, hét lên nhưng tiếng lớn. Lập tức, tôi biết điều gì đang xảy ra, nhưng tôi chưa được chuẩn bị đầy đủ để xử lý nó. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là bảo ma quỷ phải im đi. Tôi đã làm điều này bằng một giọng hết sức lớn.

DORIS NẮM QUYỀN KIỂM SOÁT

Ngay vào giây phút ấy, Doris, người làm việc với tư cách thư ký của tôi ngay bên ngoài văn phòng chạy ào vào phòng và lập tức đảm nhận việc kiểm soát tình huống. Doris vừa kết thúc việc theo học một khóa bốn tuần lễ về Cứu Giúp Những Người Bị Quỷ Ám, được Carol Wimber và Gloria Thompson dạy ở tại Vineyard Christian Fellowship thuộc Anaheim. Tôi hoàn toàn kinh ngạc bởi mức độ năng lực của nàng, tư thế đỉnh đạc, khả năng tự kiềm chế hoàn toàn và uy quyền phi thường trong giọng nói của nàng. Tôi, tất nhiên không bao lâu đã nhận ra, đó chính là sự xức dầu của Đức Thánh Linh, bởi vì nàng đang làm và nói những điều mà tôi chưa bao giờ thấy nàng làm hoặc nói trước đó. Toàn bộ sự kiện kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Tôi sớm phát hiện rằng tôi không dự phần vào công việc đó, vì vậy tôi chỉ đứng một bên ghi nhận và cầm giữ chiếc giỏ rác, là thứ tôi đưa vào dưới miệng người phụ nữ vào những lúc thích hợp.

Điều đầu tiên Doris phát hiện là có 10 con quỷ ở trong người phụ nữ này. Ngay khi nàng gọi được tên của mỗi con, nó liền xuất ra. Miệng người phụ nữ cứ cử động và sùi bọt, và khi Doris dịu dàng thuyết phục, tên này cuối cùng đã được nói ra. Thật dễ để phân biệt khi nào người đàn bà này nói và khi nào con quỷ nói. Mỗi tà linh xuất ra làm bà nghẹt thở và gầm lên một cách dữ tợn như thể đang mửa ra, và rồi bà nhổ ra một số chất nhờn.

Tà linh thứ nhất là tà linh tham dục. Thứ nhì là tà linh sợ hãi. Thứ ba là linh của sự chết, nó nói đã nhập vào người phụ nữ này khi bà 15 tuổi, năm mẹ bà qua đời. Nó nói với Doris nó to lớn và không thể ra đi được, vì nó không có chỗ nào để đi. Người phụ nữ đã khẳng định rằng bà đã bị đe dọa rất lâu và khủng khiếp về một con quái vật có bảy chân. Nhưng nó đã ra đi. Thứ tư tên là tà linh xấu xí và đã làm cho bà tin rằng hàm răng của bà xấu đến nỗi bà phải tránh đừng nhìn vào gương (hàm răng của bà bình thường). Con thứ năm là tà linh ngôn ngữ giả dối. Bà đã nhận được điều bà nghĩ là ân tứ tiếng lạ ba tháng trước, nhưng mỗi khi bà nói các thứ tiếng, điều gì đó thường đi từ bụng bà lên đến miệng và làm bà nghẹn thở. Ngay sau khi tà linh này xuất ra người phụ nữ bật lên hát một bài hát ngợi khen Chúa Jê-sus bằng tiếng Anh. Tà linh thứ sáu là tà linh thù ghét, đã nhập vào trong thời gian có khủng hoảng gia đình, năm bà 12 tuổi.

Cuộc chiến lớn nhất của Doris là với con thứ bảy, tà linh nóng giận. Nàng nói với nó: “Mày là một tà linh lớn phải không?” Và đúng như vậy. Tôi say mê quan sát Doris biết chính xác khi nào chúng nói dối, là điều chúng làm thường xuyên. Một vài tà linh khiến cho nàng phải biện luận khá nhiều, nhưng nàng luôn luôn thắng. Tà linh của sự nóng giận lắc giật đầu của người phụ nữ này dữ dội, rồi đến cổ, một cánh tay, một bàn chân, và sau đó là cả thân mình bà, rồi cổ bà rồi mắt của bà và cuối cùng là giọng nói của bà, trước khi nó miễn cưỡng xuất ra. Có nhiều tiếng ồn phát ra bởi tất cả điều này và chúng không phải là những tiếng ồn bình thường ra từ văn phòng giáo sư của chủng viện, nhưng một thư ký cảnh giác ở bên ngoài biết chính xác điều gì đang xảy ra và cô ta giữ cho mọi người bình tĩnh. Tà linh mệt mỏi đã xuất ra sau khi bày tỏ sức mạnh của nó bằng cách hầu như đẩy người phụ nữ vào giấc ngủ ngay lúc ấy tại đó. Tiếp theo là một tà linh của sự chối bỏ. Con cuối cùng là tà linh khuyết tật, đã không cho bà nhấc hai cánh tay lên trong một lúc cho đến khi nó xuất ra. Sau đó bà có thể nhấc hai cánh tay một cách bình thường.

Doris đã tư vấn giúp đỡ cho người phụ nữ này, cầu nguyện với bà, và bà tiếp tục bước tiến vui mừng. Đến lúc đó thì chúng tôi đã quên mất chỗ đau nơi mắt cá, có lẽ nó đã được chữa lành.