Chức Vụ Chữa Lành- Các Phép Lạ Ở Tại Chủng Viện Fuller; Lối Sống Của Nước Trời
CÁC PHÉP LẠ Ở TẠI CHỦNG VIỆN FULLER
Cũng như các phép lạ liên quan đến các chất độc và rắn, chúng tôi cũng đang chứng kiến Đức Chúa Trời làm cho người què đi được và người mù thấy được, điều sau cùng thậm chí còn gần gũi hơn với quê hương ở ngay tại các phòng học của tôi ở Chủng Viện Fuller. Gần đây, khi tôi bắt đầu một trong các lớp căn bản về sự tăng trưởng của Hội Thánh và mời các sinh viên tự giới thiệu mình, tôi có được đặc ân gặp nhà truyền giáo Sam Sasser, là người đã hầu việc Chúa suốt nhiều năm với Hội Ngũ tuần của Đức Chúa Trời (Assemblies of God) ở tại quần đảo phía Nam Thái Bình Dương. Phòng học của chúng tôi là một căn phòng rộng lớn, và anh ngồi ở tận cuối trên một chiếc xe lăn với bàn chân phải được quấn trong một lớp băng dày. Tôi được biết anh ta đã sống sót sau nhiều tai nạn, gồm hai tai nạn trên các chiếc tàu và một vụ nổ máy bay, anh đã phải đi những quãng đường dài trên các rặng san hô sắc bén. Vì thế, anh đã bị nhiễm độc san hô, cấu trúc xương của anh đã bị hủy hoại do tác hại của chất độc, và anh đã phải trải qua một số các cuộc giải phẫu suốt bốn năm qua để gỡ bỏ các mô xương mục. Anh không biết còn phải ngồi trên xe lăn tay bao lâu nữa.
Vào ngày thứ hai của lớp học, tôi khởi sự qui trình thường lệ của mình khi bắt đầu mỗi buổi học với 20-30 phút cầu nguyện. Tôi đã mời David Ellis, một nhà truyền giáo làm việc với Hội Truyền Giáo Phúc Âm Thế Giới ở tại Bolivia làm người hướng dẫn giờ cầu nguyện của chúng tôi ngày hôm đó, và mời lớp học nêu lên những nan đề cầu nguyện. Sam Sasser xin cầu nguyện được chữa lành. Tôi gợi ý với Ellis khi đến tên của Sasser trên danh sách thì hãy cho các sinh viên chung quanh anh ấy một cơ hội để họ đặt tay trên anh ấy trước khi cầu nguyện. Và Ellis đã làm như vậy.
Vào ngày thứ ba trong giờ cầu nguyện, Sam Sasser nói rằng anh muốn có lời làm chứng, anh nói: “Tôi không muốn cường điệu, nhưng ngày hôm qua tôi đã không đề cập đến việc tôi đã bị mù do hậu quả bị nhiễm độc san hô. Ngày đầu tiên tôi đã không thấy ông khi ông đứng lớp.” (Tôi cũng không lưu ý nhiều lắm đến sự kiện người thư ký của anh ấy, cũng là người đẩy chiếc xe lăn cho anh, là người ghi chú cho anh ta.) Anh nói tiếp: “Ngày hôm qua, sau khi cầu nguyện, tôi đã có thể nhìn thấy ông qua toàn thể lớp học. Không những vậy, nhưng buổi sáng hôm nay, cô y tá đến để thay băng cho tôi bảo rằng cô không thể tin được điều cô thấy. Cô cho tôi biết rằng nếu khởi đầu này cứ tiến triển, thì tôi sẽ lành mạnh sau một tuần lễ.”
Vào ngày thứ tư, anh ấy lại giơ tay lên một lần nữa, anh nói: “Cô y tá đã báo cho bác sĩ của tôi điều cô phát hiện, vì vậy ông ta đã gọi tôi lên văn phòng sáng hôm nay. Khi mở băng ra, ông ta cười lớn. Một đường rạch dài tám phân và sâu ba phân đã hoàn toàn lành trên bề mặt có đóng một vết sẹo nhỏ. Ông ta bảo: ‘Điều này không thể xảy ra được. Có gì đó không ổn rồi. Tôi e rằng sẽ có một túi nhiễm trùng ở bên trong.’ Vì vậy, ông mở vết thương ra và kiểm tra bằng một đầu có quấn gạt, nhưng đã không phát hiện được gì cả. Ngày hôm nay, ông bảo tôi đi đo chân để mua loại giày đặc biệt.”
Trong vòng một tuần sau đó, Sam Sasser đang đi lại trong sân trường đẩy chiếc xe lăn tay của chính anh. Anh đã hủy bỏ việc đăng ký vào một trường đặc biệt để huấn luyện anh sử dụng chó dẫn đường. Mặc dầu Sam vẫn chưa có thể chơi tennis hoặc đọc sách, và các dấu hiệu của sự nhiễm độc san hô nằm bên dưới thỉnh thoảng bộc phát, nhưng Đức Chúa Trời đã được vinh hiển thật lớn lao, và nhiều người trong cộng đồng chủng viện đã được khích lệ khi thấy các dấu hiệu này của nước Trời giữa vòng chúng tôi.
LỐI SỐNG CỦA NƯỚC TRỜI
Kết quả cuối cùng của việc hiểu được các dấu hiệu của nước Trời là để cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn dành cho các loại chức vụ chúng ta có thể trông đợi Chúa dẫn dắt chúng ta vào nếu Ngài nhậm lời cầu nguyện của chúng ta: “Ý Cha được nên ở đất như trời.” Với những điều này, chúng ta triển khai một bức tranh rõ ràng hơn về những gì mà nếp sống của nước Trời hoàn toàn có liên quan đến. Là những con người, nhưng điều quan trọng hơn nữa là những thành viên tích cực của các Hội Thánh và của các nhóm Cơ Đốc khác, các chức vụ thuộc về nước Trời này phải đang lưu xuất qua chúng ta trên một cơ sở đều đặn. Chúng ta phải quan tâm đến người nghèo và những người bị ức hiếp. Chúng ta phải chu cấp lương thực cho kẻ đói ngay tại đây trong đất nước của chính chúng ta và trên thế giới. Chúng ta phải tìm cách thay đổi những cơ cấu xã hội tạo ra tình trạng mất phẩm giá cho con người, như là chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi hoặc hệ thống đẳng cấp ở tại Ấn Độ.
Như chúng ta đã giải thích điều đó ở đây, rõ ràng là thần học nước Trời cung cấp một cơ sở hợp lý vững chắc cho các chức vụ xã hội đủ mọi loại cũng như cho công tác truyền giáo. Rõ ràng là tất cả các dấu hiệu của nước Trời đều quan trọng và đòi hỏi sự tập trung chú ý của chúng ta. Nổi bật giữa vòng các chức vụ ấy là việc chữa lành cho người đau và đuổi quỷ. Vì vậy, việc bắt đầu một chức vụ chữa lành trong Hội Thánh của bạn có thể xem như là một kết quả tự nhiên của sự hiện diện của Chúa Jê-sus và nước Ngài. Tuy nhiên, nhiều Cơ Đốc nhân bắt đầu lo lắng vô cùng ở thời điểm này. Việc gởi các thiết bị y tế đến cho những nạn nhân bị động đất ở tại Mễ Tây Cơ, việc hỗ trợ một chiến dịch truyền giáo của Billy Graham hoặc việc ký vào một đơn xin phóng thích những người Do Thái ở tại Liên bang Xô-viết là những hoạt động còn dễ chịu hơn là việc tổ chức một buổi nhóm chữa lành nhiều. Một số người, phần lớn là do muốn tự bảo vệ mình, đã hỏi tôi rằng liệu tôi có tin rằng các phép lạ và các dấu kỳ như là những tiêu chuẩn hay không.
Tôi nghĩ câu trả lời cho điều đó tùy thuộc vào tiêu chuẩn hàm ý điều gì. Tôi không tin rằng các dấu kỳ và các phép lạ siêu nhiên nhất thiết phải là một dấu hiệu của Cơ Đốc giáo thật, tính thuộc linh thật hoặc Hội Thánh thật. Những dấu kỳ và phép lạ ấy không được liệt kê bên dưới bông trái của Đức Thánh Linh. Có nhiều Cơ Đốc nhân ưu tú sống rất tốt mà không có các dấu kỳ phép lạ ấy.
Theo quan điểm của tôi, các dấu kỳ và các phép lạ nên được kể như là cần phải tiêu chuẩn hóa trong Cơ Đốc giáo như việc làm báp tem của người tin Chúa. Một số các giáo phái như là Báptít, Mennonites, và Hội Thánh của Đấng Christ lập luận rằng bạn không thể có một Hội Thánh thật nếu không có các dấu kỳ và phép lạ. Còn những Hội Thánh khác, như là Trưởng Lão, Episcopalians, và Lutherans nghĩ rằng họ vẫn có những Hội Thánh thật dầu không có phép lạ. Tôi tin nơi phép lạ và cần phép lạ trong gia đình của tôi cũng như bất cứ người nào khác mà tôi có thể ảnh hưởng, nhưng tôi thuộc về một Hội Thánh Hội Chúng trong đó nếu bạn đòi phép lạ hoặc bạn không đòi phép lạ thì cũng tốt như nhau. Tôi nhìn thấy chức vụ trong việc chữa lành người bệnh và đuổi quỷ trong một ánh sáng tương tự. Tôi tin nơi phép lạ, tôi cầu nguyện xin phép lạ và giúp càng nhiều người bước vào chức vụ ấy càng tốt. Nhưng nếu có một số các anh em chị em Cơ Đốc khác nhìn các sự việc khác hơn, thì không hề vì những cơ sở ấy mà tôi xếp loại họ là những Cơ Đốc nhân hạng hai.
NAN ĐỀ CỦA NHỮNG NGƯỜI HƯ MẤT
Một trong các mục tiêu chính của quyển sách này là nhằm giúp người Cơ Đốc và các Hội Thánh Cơ Đốc bước vào một chức vụ chữa lành hiệu quả thường xuyên. Điều này nhiều khi cần thiết phải dọn dẹp những sự ngăn trở chặn đường hầu cho điều đó có thể xảy ra được. Tôi đã tìm thấy rằng thật ích lợi cho những người Tin Lành để quan sát những việc tương tự rất có ý nghĩa giữa chức vụ nước Trời của chúng ta trong việc giảng Tin Lành cho những người hư mất và chức vụ về nước Trời của chúng ta trong việc chữa lành kẻ bệnh. Về mặt truyền thống, giữa vòng những người Tin Lành, thì việc truyền giáo là khoản mục chiếm ưu tiên cao hơn các hoạt động xã hội khác, là điều mà những người Tin Lành thuộc phái tự do nhấn mạnh, hoặc việc đuổi quỷ, là điều mà những người thuộc phong trào ân tứ nhấn mạnh. Cứu thục học là một sự nhấn mạnh mạnh mẽ hơn cả các đạo lý xã hội hoặc giáo lý về Đức Thánh Linh.
Giữa vòng những người Tin Lành có một sự nhất trí rằng ý muốn của Đức Chúa Trời để giảng Tin Lành cho người hư mất là điều rõ ràng dứt khoát trong Kinh Thánh. Ít có ai nghi ngờ rằng Ngài “không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (IIPhi 2Pr 3:9). Nhưng mặc dầu Ngài muốn mọi người đều phải được cứu, không phải tất cả đều được cứu.
Vậy thì tại sao ý muốn của Đức Chúa Trời không được thực hiện là có nhiều người Ngài muốn được cứu lại không được cứu? Nhiều lý do khác nhau có thể được nêu ra cho mỗi trường hợp riêng lẻ, nhưng câu trả lời chung là việc cứ để cho con người hư mất là một hành động trực tiếp của Satan. Kinh Thánh dạy điều này rất rõ ràng. Sứ đồ Phaolô nói rằng nếu Tin Lành bị che khuất, là bị che khuất cho những kẻ hư mất “cho những kẻ chẳng tin mà chúa đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ là ảnh tượng của Đức Chúa Trời” (IICo 2Cr 4:4). Việc truyền giảng và giúp con người được cứu là một phần của chiến trận nước Trời mà chúng tôi đang mô tả. Khi một người được cứu, đó là một chiến thắng trên kẻ thù. Đó là lý do vì sao chúng ta được cho biết các thiên sứ ở trên trời cũng vui mừng khi điều đó xảy ra (xem LuLc 15:10).
Chúng ta những người Tin lành đã từ lâu phải quen cam chịu với thực tế rõ ràng và phũ phàng, đó là tình trạng hư mất là một sự thật và nó sẽ tiếp tục là một sự thật trong thế giới của chúng ta cho đến ngày Chúa Jê-sus trở lại. Qua các thời đại, các nhà thần học đã cố gắng để giải thích lý do vì sao. Các cuốn sách đã được viết ra về thuyết tiền định (predestination), tiền định tiền sa ngã (supralapsarianism), và Trời- người hiệp tác Tiền cứu chuộc (pre-soteric synergism), nhưng không một ai giải quyết được vấn đề thỏa mãn cho tất cả mọi người. Các hội đồng về lịch sử Hội Thánh đã thành công trong việc giải thích thuyết ba ngôi và mối liên hệ giữa hai bản tánh của Chúa Cứu Thế, nhưng họ đã không giải thích được điều này.
Nhưng tất cả những điều đó có làm cho những người như Billy Graham hay Bill Bright hay Luis Palau bối rối không? Không hề. Trong khi những nhà thần học đang tìm cách để phát hiện vì sao điều đó xảy ra hoặc không xảy ra, thì những người này cứ tiếp tục rao giảng Tin lành ngày càng cứu được nhiều người càng tốt. Và hầu hết những người Tin Lành khác đều đang vui mừng cộng tác với họ.